THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
(Mã vùng 84 – 511
Diện tích: 1 256 km2
Dân số (2002): 724 000 người
Tỉnh lỵ: Thành phố Đà Nẵng
Các quận nội thành: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành
Sơn, Liên Chiểu 2
huyện: Hoà Vang và Hoàng Sa
Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Cờ tu, Tày
Thành
phố Đà Nẵng nằm ở trung độ đất nước, trên trục đường bộ, đường sắt, đường thủy
và đường hàng không của cả nước và khu vực. Phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế,
phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam ,
phía đông giáp biển Đông.
Địa
hình thành phố Đà Nẵng khá đa dạng: phía bắc là đèo Hải Vân hùng vĩ, vùng núi
cao thuộc huyện Hoà Vang (phía tây bắc của tỉnh) với núi Mang 1 708 m, núi Bà
Nà 1487 m. Phía đông là bán đảo Sơn Trà hoang sơ và một loạt các bãi tắm biển đẹp
trải dài từ bán đảo Sơn Trà đến bãi biển Non Nước. Phía nam có núi ngũ Hành
Sơn. Ngoài khơi có quần đảo Hoàng Sa với ngư trường rộng lớn.
Thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1888, từ xa xưa đã
là hải cảng quan trọng của Việt Nam ,
nay là một trung tâm kinh tế, một thành phố lớn nhất miền Trung. Đà Nẵng không
chỉ gắn bó mật thiết với Quảng Nam
mà còn với cả miền Trung, Tây Nguyên, nam Lào, đông bắc Cam-pu-chia. Đà Nẵng có
khu vực cảng Đà Nẵng với cảng biển Tiên Sa (cảng sâu) và 9 cầu cảng dọc sông
Hàn, có sân bay quốc tế Đà Nẵng, có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại. Đà Nẵng
còn là nơi hội tụ các xí nghiệp lớn của các ngành dệt, sản xuất hàng tiêu dùng,
công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng...
Đến với vùng đất Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp đi thăm các
danh lam thắng cảnh nổi tiếng như núi Bà Nà, Ngũ Hành Sơn, đèo Hải Vân... và có
thể bơi lội thoả thích ở các bãi biển đẹp, cát trắng mịn kéo dài hàng chục ki
lô mét. Tiềm năng du lịch của vùng đất Đà Nẵng thật to lớn.
Di tích - Danh thắng: Bãi biển Non Nước; Bán đảo Sơn
Trà; Ngũ Hành Sơn - Non Nước; Khu dl Bà Nà - Núi Chúa; Ðèo Hải Vân; Động Huyền
Không; Động Huyền Vi; Động Tàng Chơn; Động Quan Âm; Chùa Linh Ứng; Chùa Phổ Đà;
Chùa Tam Bảo; Chùa Pháp Lâm; Chùa Tam Thai; Chùa Quán Thế Âm; Toà hội Cao Đài -
Đà Nẵng; Làng đá mỹ nghệ Non Nước; Làng Cổ Phong Nam.
Bảo tàng: Bảo tàng Chàm;
Bảo tàng Đà Nẵng; Bảo tàng khu 5 .
Lễ hội: Lễ hội Quán Thế Âm; Ngũ Hành Sơn; Lễ hội Cá Ông .
Ngũ Hành Sơn
Vị trí: Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, cách
trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 7km về phía đông nam.
Đặc điểm: Ngũ Hành Sơn nằm trên một dải cát vàng chiều dài khoảng 2km, rộng
khoảng 800m.
Ngũ Hành Sơn không cao, sườn núi dốc đứng cheo leo, cây cỏ
lơ thơ. Đá ở Ngũ Hành Sơn là loại đá cẩm thạch có nhiều màu: sáng đục, trắng sữa,
hồng phấn, xám vân đỏ, nâu đen, xanh đậm..., không cứng lắm và là chất liệu rất
tốt cho tạc tượng và đồ mỹ nghệ trang trí. Có nhiều truyền thuyết về sự hình
thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có truyện kể rằng: “Ngày xưa, nơi đây là một vùng
biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong một túp lều tranh. Một
hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất
lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ từ từ lăn ra ở dưới
bụng. Sau đó giao long quay ra biển đi mất. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện,
tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm
vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân. Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao chiếm
cả một vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ mầu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng,
tím lấp lánh như một hòn gạch khổng lồ. Một hôm, ông lão vừa chợp mắt thì nghe
có tiếng lửa cháy, ông cầu cứu móng rùa - vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho
ông lúc ra đi và trong lòng trứng xuất hiện một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông
đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn và không biết đang xẩy ra một phép lạ: một cô gái
xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn đá cẩm thạch
vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ của quả trứng...”.
Ngũ
Hành Sơn gồm có 5 ngọn: Thuỷ Sơn và Mộc Sơn ở phía đông, Thổ Sơn, Kim Sơn, Hoả
Sơn ở phía tây. Trong tư duy triết học của Trung Hoa thì ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ là những yếu tố cấu thành vũ trụ. Con số 5 là con số cực kỳ quan trọng
trong tư duy và trong đời sống phương Đông vì vậy 5 ngọn Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy
Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn tự trong mình nó đã hàm chứa những vẻ kỳ bí dị thường.
Kim
Sơn
ọn Kim Sơn nằm ở phía
đông nam, bên bờ sông Cổ Cò. Đi thuyền trên sông, du khách có thể ngắm bóng
núi, bóng chùa in trên mặt nước phẳng lặng. Tại đây xưa có Bến Ngự, nơi thuyền
Vua cập bến mỗi khi du hành Ngũ Hành Sơn. Nay bến xưa không còn nhưng cạnh chùa
Quan Âm người ta vừa tìm thấy một cột lim neo thuyền ngày xưa. Ngay dưới chân
ngọn Kim Sơn có một hang động dài hơn 50m, rộng gần 10m, cao khoảng 10 - 15m. Lối
vào động là những bậc đá tự nhiên, bên trong là những lớp thạch nhũ bám vào
vách núi tạo thành hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao bằng người thật rất thanh
tú. Tượng thạch nhũ này còn sinh động hơn nhờ một lớp nhũ đá lấp lánh như dải
kim tuyến phủ từ bờ vai đến gót chân tượng. Dưới chân tượng là một con rồng
đang cuộn mình giữa những làn sóng. Đặc biệt, phía sau Bồ Tát còn có một hình
tượng nhỏ hơn trông như Thiện Tài đồng tử và bên trái là hình chim Khổng Tước,
hai cánh xoè rộng toả khắp trần động. Có thể nói đây là bức phù điêu tuyệt mỹ
mà thiên nhiên đã ban cho Kim Sơn. Sau khi phát hiện ra động (1950), hoà thượng
Thích Pháp Nhãn đã cho mở rộng lối vào động và xây dựng chùa Quán Thế Âm. Chùa
dựa lưng vào ngọn Kim Sơn, ngoảnh mặt ra khúc sông đầy hoa sen thơm ngát. Hàng
năm vào mùa lễ hội đầu xuân (19/2 âm lịch), chùa mở hội lấy tên là Hội Quán Âm.
Mộc
Sơn
Mộc
Sơn nằm ở phía đông, sát biển, gần hòn
Thuỷ Sơn. Phía đông và nam là động cát, phía bắc là ruộng và phía tây là xóm
làng. Tuy thuộc hành Mộc nhưng tại đây lại rất ít cây cối. Đỉnh núi đá bị xẻ
thành những răng cưa giống như cái mồng gà trống nên có thể vì vậy mà còn có
tên núi Mồng Gà. Trên hòn núi này không có chùa chiền, chỉ có một khối đá cẩm
thạch màu trắng trông tựa người đang ngồi. Người địa phương gọi là Cô Mụ hay Bà
Quan Âm. Dưới chóp núi 10m có một kẻ đá rộng chạy ngang phía nam.Trong núi có một
động nhỏ, tương truyền ngày xưa có một người đàn bà tên là Trung tu ở đó nên có
tên là động Bà Trung. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cán bộ
và nhân dân địa phương thường vào đây để tránh máy bay địch.
Thủy
Sơn
Thuỷ
Sơn nằm trên một dải đất rộng chừng 15ha và là ngọn cao nhất trong Ngũ Hành
Sơn. Đỉnh núi có 3 ngọn nằm ở 3 tầng, giống 3 ngôi sao Tam Thai ở đuôi chòm Đại
Hùng tinh nên còn có tên là núi Tam Thai. Ngọn cao nhất ở phía tây bắc gọi là
Thượng Thai, ngọn phía nam thấp hơn gọi là Trung Thai và ngọn phía đông thấp nhất
gọi là Hạ Thai.
Các chùa chiền và hang động tập trung chủ yếu ở Thuỷ Sơn. Ở ngọn Thượng
Thai có Vọng Giang Đài, tháp Phổ Đồng, chùa Từ Tâm, chùa Tam Tâm, chùa Tam
Thai, Hành Cung, động Hoả Nghiêm, động Huyền Không, động Linh Nham và động Lăng
Hư. Ở ngọn Trung Thai có hai cổng động Thiên Phước Địa, Văn Căn Nguyệt và các động
Vân Thông, Thiên Long, hang Vân Nguyệt. Ngọn Hạ Thai có Vọng Hải Đài, chùa Linh
Ứng, động Ngũ Cốc, Tàng Chân còn phía dưới núi là Giếng Tiên và động Âm Phủ.
Lên
thăm chùa chiền và hang động Thuỷ Sơn, du khách có thể đi bằng hai đường: đường
tam cấp phía tây nam dẫn lên chùa Tam Thai có 156 bậc hoặc tam cấp phía đông dẫn
đến chùa Linh Ứng có 108 bậc. Leo đến khoảng giữa đường tam cấp phía tây, quý
khách sẽ gặp cổng ngoài của chùa Tam Thai nhưng hãy khoan vào chùa ngay mà nên
rẽ trái, vòng hướng chùa Từ Tâm, chùa Tam Tâm và Phổ Đồng ra thăm Vọng Giang
Đài chếch về phía phải chùa Tam Thai. Ở đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu rộng
1m, cao 2m dựng trên một nền đế rộng. Trên mặt bia khắc 3 chữ Hán lớn “Vọng
Giang Đài” (Đài ngắm sông) và một dòng chữ nhỏ ghi ngày tháng năm dựng bia
“Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt cát nhật” (Năm Minh Mạng thứ 18, tháng 7,
ngày tốt). Đứng ở đây có thể nhìn thấy bao quát cả một vùng đồng ruộng mênh
mông của Đà Nẵng, Quảng Nam
và các con sông Trường Giang, Cẩm Lệ bao quanh. Lên đến chùa Tam Thai là du
khách đã đến với một di tích quốc gia và cũng là di tích Phật giáo. Theo sử liệu,
chùa được xây dựng cách đây ít nhất 300 năm. Năm 1825, Minh Mạng trong chuyến
tuần du Ngũ Hành Sơn đã cho xây lại chùa Tam Thai và đến năm 1927 đã cho đúc 9
tượng và 3 chuông lớn. Vòng ra sau lưng chùa Tam Thai theo một con đường đất,
du khách sẽ gặp một cổng vôi cổ kính không biết xây từ bao giờ, trên có 3 chữ
Hán “Huyền Không Quan”. Đây là cửa vào động Hoả Nghiêm và động Huyền Không.
Trong động Huyền Không có đường dẫn sâu xuống lòng đất. Lần mò trong bóng tối
khoảng 10m trước mặt bỗng bừng lên một khoảng không gian rộng, cao vời vợi, ánh
sáng mờ ảo, êm dịu. Động Huyền Không là hang lộ thiên nằm gọn trong lòng núi.
Núi hình tròn nên mái động cũng hình vòm, nền bằng phẳng, không có măng đá và
nhũ đá, trên vòm có 5 lỗ lớn nhỏ có thể trông thấy bầu trời bên ngoài. Vách động
có bọt đá tạo nên những hình thù kỳ thú.
Từ
sau chùa Tam Thai, du khách đi về phía đông sẽ gặp cụm hang động Trung Thai. Cụm này
có động Thiên Phước Địa, hang Vân Nguyệt và động Vân Thông. Động Vân Thông nằm
gọn trong lòng núi, hình tròn như đường ống chếch lên phía ngọn núi. Trong động
có một tấm bia cổ, khắc 3 chữ “Ngũ Uẩn Sơn”, giữa động có một tượng Phật rất lớn.
Sau lưng tượng là đường đi lên động, càng vào sâu càng hẹp và hướng lên đỉnh
núi, phải bám vào các tảng đá mới bò lên được. Cuối động là miệng thông ra
ngoài to bằng cái nong (đường kính khoảng hơn 1m). Ánh sáng từ đỉnh dọi vào
trong động tạo ánh hào quang rực rỡ. Đứng trên đỉnh động có thể bao quát cả một
vùng đồng ruộng, sông biển, xóm làng.
Cụm
chùa chiền hang động Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng
Chân, động Ngũ Cốc, động Âm Phủ, Giếng Tiên. Vọng Hải Đài là điểm cao bên phải
chùa Linh Ứng. Đứng ở đây du khách có thể phóng tầm mắt ra một vùng trời biển
bao la với các hoạt động nhộn nhịp của ghe thuyền trên biển. Ở đây cũng có một
tấm bia bằng đá Trà Kiệu, kích thước như ở Vọng Giang Đài, dựng vào năm Minh Mạng
thứ 18 (1837). Chùa Linh Ứng ở ngọn Hạ Thai cũng là ngôi chùa có giá trị lịch sử
cao, được xem là quốc tự và di tích Phật Giáo. Từ tam quan chùa Linh Ứng có đường
đi xuống núi, rẽ phải sẽ gặp động Âm Phủ. Động cao, rộng, hình tròn sâu thẳm.
Đường hang quay về phía tây, vách lởm chởm đá, ẩm ướt, mát lạnh. Xuống khoảng
30m ta sẽ gặp một hầm cao, ánh sáng vẫn lọt qua khe đá dọi vào. Lần qua những cột
đá lớn ta sẽ gặp một hang hẹp, lách qua ngách hầm còn có một vòm cao, một giếng
sâu thông xuống lòng đất.
Hỏa
Sơn
Hoả
Sơn gồm 2 ngọn và một đường đá nhô lên nối liền chúng với nhau. Ngọn phía tây gần
Kim Sơn là Dương Hoả Sơn, nằm trên bờ sông Cổ Cò. Ngày xưa, khi Đà Nẵng và Hội
An còn giao lưu bằng đường thuỷ, ở đây có một ngã ba sông, ghe thuyền qua lại
vô cùng tấp nập. Trên sườn núi phía tây, mặt hướng về phía bắc, đối diện với
Kim Sơn có 3 chữ Hán rất to được khắc vào vách đá “Dương Hoả Sơn”. Trong núi
Dương Hoả Sơn có các hang và chùa Phổ Sơn Đà. Còn ngọn ở phía đông, gần đường
đi Hội An là Âm Hoả Sơn với chóp núi nhô cao, sườn núi có nhiều thớ đá nằm
nghiêng và chạy ngang tạo thành lát cắt, mỏm núi phía đông có một hang đá thông
từ sườn phía nam ra sườn phía bắc. Cây cối mọc xen dày ở các kẽ đá.
Thổ
Sơn
Thổ
Sơn là ngọn núi nằm ở phía bắc hòn Kim Sơn và phía tây hòn Thủy Sơn. Đây là ngọn
núi đất, thấp nhất nhưng cũng dài nhất, trông như một con rồng nằm dài trên bãi
cát. Phía tây Thổ Sơn là đoạn sông Ba Chà. Núi có hai tầng, lô nhô những khối
đá trên đỉnh, nhất là ở sườn phía đông. Sườn phía bắc dốc hơn, có những vách đá
dựng đứng, hẹp và thấp. Thân núi có một lớp cỏ mỏng bao phủ để lộ nhiều chỗ màu
đất sét đỏ có nhiều gạch cổ thời Chiêm Thành.
Trong
núi có một cái hang cửa quay về phía tây nam, ăn sâu vào trong núi có tên là
hang Cóc hoặc hang Bồ Đề. Ngách vào hang rất hẹp, chỉ đủ một người lách qua.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân
địa phương đã coi hang Bồ Đề như là một địa đạo thiên nhiên, một địa điểm chống
càn, bảo đảm an toàn trong mọi tình huống.
Tại
sườn phía bắc ngọn Thổ Sơn, về phía Đà Nẵng, có chùa Long Hoa. Chùa mới được
xây dựng từ năm 1992, còn đơn sơ nhưng phong cảnh cũng rất hữu tình. Đặc biệt địa
hình nơi đây trải dài rất thuận lợi cho việc tôn tạo cảnh quan để góp phần tô
điểm thêm cho bức tranh toàn cảnh Non Nước - Ngũ Hành Sơn thêm phong phú. Trên
vách đá bên cạnh ngôi chùa có một khối đá lớn cao chừng 30m có hình dáng gần giống
hình tượng Phật Di Lặc. Theo Phật giáo thì Phật Di Lặc là Phật Vị Lai thuyết
pháp tại hội Long Hoa nên chùa lấy tên là chùa Long Hoa. Chùa thờ Phật Di Lặc ở
trước, phía sau cao hơn là Phật Thích Ca, hai bên là Bồ tát Quán Thế Âm và Địa
Tạng. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Huệ Thường.
Ngũ
Hành Sơn được ví như hòn non bộ khổng lồ giữa lòng thành phố Đà Nẵng, không những
là biểu tượng văn hoá trong tâm thức của mỗi người con quê hương Đà Nẵng
mà còn là điểm đến hấp dẫn của du lịch Miền Trung - con đường di sản.
Khu du lịch Bà Nà -
Núi Chúa
Vị trí: Khu du lịch Bà Nà - Núi Chúa thuộc địa phận huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 50km về phía tây.
Đặc điểm: Nằm ở độ cao 1.487m so với mặt biển, khí hậu quanh năm mát mẻ, nhiệt độ
trung bình vào mùa hè khoảng 18ºC, Bà Nà - Núi Chúa là khu du lịch sinh
thái-nghỉ dưỡng lý tưởng ở miền Trung.
Để
lên được đỉnh Bà Nà, du khách phải vượt qua 15km đường quanh co, uốn lượn. Địa
hình nơi đây bằng phẳng như một cao nguyên thu nhỏ. Du khách đến Bà Nà không chỉ
được tận hưởng không khí trong lành, xanh, sạch đẹp mà còn được chiêm ngưỡng những
cảnh quan đẹp mà hiếm vùng nghỉ mát nào có được. Vào những ngày trời quang mây
tạnh, du khách có thể thu gọn trong tầm mắt cả một vùng không gian rộng lớn như
thành phố Đà Nẵng, vịnh Vũng Thùng với đường viền hình vòng cung từ chân đèo Hải
Vân đến bán đảo Sơn Trà, bãi biển Mỹ Khê, non nước Ngũ Hành Sơn, sông Thu Bồn uốn
quanh những cánh đồng trù phú, Cù Lao Chàm giữa nhấp nhô sóng biếc...Thiên
nhiên như một bức tranh thủy mặc hiếm nơi nào có được.
Bà
Nà có hệ động thực vật phong phú và đa dạng. Trong những cánh rừng nguyên sinh
đại ngàn là nơi cư trú của 256 loài động vật, trong đó có 61 loài thú, 178 loài
chim và 17 loài bò sát. Hệ thực vật ở đây có 543 loài gồm 136 họ và 379 chi. Bà
Nà là nơi có nhiều loài động vật quý hiếm cư trú như trĩ sao, gấu đen châu Á,
vượn bạc má hung...Năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ
thiên nhiên, đối tượng bảo vệ là rừng nhiệt đới và nhiều loại động thực vật quý
hiếm.
Vào
đầu thế kỷ 20, để phục vụ cho nhu cầu nghỉ ngơi của người Pháp tại miền Trung, nhiều
nhà nghỉ, biệt thự, khách sạn đã mọc lên suốt dọc các triền núi, trên đỉnh Núi
Chúa và đỉnh Bà Nà. Sau này do chiến tranh tàn phá, nơi đây trở nên hoang phế
và bị lãng quên theo thời gian. Những năm gần đây, Đà Nẵng đã dần khôi phục và
tôn tạo một số khu biệt thự cổ kiểu Pháp, khu văn hoá Phật giáo, hầm rượu và
hàng loạt khách sạn, biệt thự, quán bar, sân tennis, cầu lông, bida...Tại đây
còn thường xuyên tổ chức các đêm lửa trại, quảng bá các đặc sản vùng núi và tạo
điều kiện giúp du khách đi tham quan dã ngoại. Từ đồi Vọng Nguyệt, du khách sẽ
được hệ thống cáp treo hiện đại đưa đến khu trung tâm. Hệ thống này có 16 cabin
có thể phục vụ khoảng 320 khách/giờ.
Hàng năm, Bà
Nà đón hàng chục ngàn khách du lịch trong và ngoài nước. Một đêm nghỉ lại ở Bà
Nà là dịp để du khách nghe hơi thở của núi rừng và sống giữa thiên nhiên hoang
dã. Bà Nà, một điểm du lịch hấp dẫn khi bạn có dịp đến với thành phố Đà Nẵng.
Bảo tàng điêu khắc
Chămpa
Vị trí: Bảo tàng nằm ở điểm tiếp giáp của hai con đường Trưng Nữ
Vương và Bạch Ðằng, thành phố Ðà Nẵng.
Đặc điểm: Ðây là bộ sưu tập cuối cùng về nghệ thuật
điêu khắc Chămpa trên thế giới được đặt tại Ðà Nẵng, trung tâm cũ của vương
quốc Chămpa.
Bảo tàng điêu khắc Chămpa được xây dựng từ năm
1915 dưới sự bảo trợ của Viện nghiên cứu Viễn Ðông Pháp tại Việt Nam . Năm 1936, Bảo tàng được mở rộng thêm và chính thức khánh
thành vào năm 1939.
Bảo tàng điêu khắc Chămpa xây phỏng theo mô típ
của các kiến trúc Chămpa, khối nhà trưng bày màu trắng có đường nét trang trí
tuy nhỏ nhưng đơn giản và duyên dáng.
Hiện nay bảo tàng trưng bày khoảng 300 tác phẩm
điêu khắc nguyên bản bằng chất liệu sa thạch, số ít là đất nung được sưu tập từ
các đền, tháp Chàm nằm rải rác ở miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Ðấy
là những đài thờ và các phù điêu trang trí trên các kiến trúc. Chúng được trưng
bày trong 10 phòng mang tên các địa phương có hiện vật được phát hiện. Kiến
trúc có niên đại từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15 theo chế độ mẫu hệ "Mother
of the country".